Là một người quan tâm và thích thú đến các loại cây thuốc quý hiếm của núi rừng, thì bài viết về “Tây Bắc mùa trồng cây thuốc” này chắc chắn sẽ hữu ích đến bạn. Cùng Đặc sản Tây Bắc tìm hiểu xem bạn nhé!
Tây Bắc – Kho báu dược liệu giữa đại ngàn
Vùng Tây Bắc Việt Nam từ lâu đã được ví như “rừng vàng” về dược liệu. Khí hậu ôn đới ở các dãy núi cao, như Hoàng Liên Sơn, tạo điều kiện cho hàng trăm loài cây thuốc quý sinh sôi. Riêng Vườn quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai) đã được ví như kho báu với hơn 850 loài cây thuốc, trong đó có nhiều loài đặc hữu chỉ tìm thấy ở núi rừng Tây Bắc như: hoàng liên, sâm vũ diệp, lan kim tuyến, cẩu tích.
Nhờ tri thức bản địa của đồng bào dân tộc, những cây thuốc quý hiếm này không chỉ được phát hiện mà còn gắn bó mật thiết với đời sống, góp phần hình thành nên mùa trồng cây thuốc hàng năm – thời điểm người dân địa phương gieo trồng, chăm sóc các cây thuốc quý nhằm lưu giữ và phát huy nguồn dược liệu thiên nhiên.
Tam thất – “Kim bất hoán” quý giá của núi rừng
Tam thất Bắc (Panax pseudoginseng) là loài cây thân thảo nhỏ thuộc họ Nhân sâm, nổi tiếng đến mức được mệnh danh “Kim bất hoán” – nghĩa là quý đến mức “vàng cũng không đổi được”. Cây tam thất mọc ở vùng núi cao trên 1.500m, sống 7 năm mới cho thu hoạch củ nên cực kỳ quý hiếm.
Rễ củ tam thất đen xám, cứng và nhiều mấu sần; hoa mọc thành cụm nhỏ màu xanh lục và kết quả đỏ mọng chứa 2 hạt trắng. Nhờ chứa các saponin và hoạt chất quý, tam thất được xem là vị thuốc sánh ngang nhân sâm về khả năng bồi bổ sức khỏe.

Củ và bột tam thất bắc khô – Ảnh sưu tầm
Công dụng nổi bật
Tam thất nổi tiếng với tác dụng cầm máu, tiêu ứ huyết, giảm đau và bổ khí huyết. Trong Đông y, tam thất vị ngọt hơi đắng, tính ấm, thường được dùng để cầm máu hiệu quả trong các trường hợp chấn thương, xuất huyết. Phụ nữ sau sinh uống tam thất giúp bổ máu, nhanh hồi phục sức khỏe và “thay máu mới” cho cơ thể.
Ngoài ra, tam thất còn giúp hoạt huyết, tán ứ, tiêu sưng, nên thường có mặt trong bài thuốc chữa bầm tím, tụ máu sau tai nạn. Y học hiện đại cũng ghi nhận tam thất hỗ trợ điều hòa kinh nguyệt nhờ tăng cường hormone buồng trứng, đồng thời có khả năng chống viêm, tăng sức đề kháng và được nghiên cứu trong hỗ trợ điều trị ung thư.
Vai trò trong đời sống địa phương
Từ xa xưa đồng bào vùng cao Tây Bắc đã coi tam thất là “thần dược” trong nhà. Củ tam thất khô được người dân tán bột rắc lên vết thương để cầm máu nhanh. Nhiều gia đình ngâm rượu tam thất làm thuốc bổ, dùng tiếp khách quý. Phổ biến nhất là tam thất được nghiền thành bột hoặc thái lát mỏng pha mật ong cho phụ nữ sau sinh uống để chống suy nhược.
Ngày nay, tam thất còn mang lại giá trị kinh tế cao: củ tam thất loại tốt có giá rất đắt, thị trường có bao nhiêu mua bấy nhiêu. Nhiều hộ dân đã và đang trồng tam thất trên nương như một hướng phát triển kinh tế, bởi 1 ha tam thất nếu thành công có thể đem lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Ngoài có tác dụng trong y học củ tam thất bắc còn có giá trị kinh tế khá cao – Ảnh từ Lan Lê
Lưu ý: Tam thất hoang dã ngày càng hiếm. Các nghiên cứu gần đây cho thấy tam thất hoang (loại mọc tự nhiên ở Hoàng Liên Sơn) thực chất thuộc chi Panax (họ nhân sâm) và có gene tương đồng tới 99-100% với nhân sâm quý. Cũng chính vì sự quý hiếm đó, tam thất hoang bị khai thác quá mức, quần thể ngoài tự nhiên đã suy giảm 90% chỉ trong 10 năm.
Do đó, tam thất rừng hiện nằm trong Sách Đỏ, cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Người dân Tây Bắc hiện nay chuyển sang gây trồng tam thất dưới tán rừng để vừa phát triển kinh tế, vừa bảo tồn loài cây thuốc danh tiếng này.
Sâm vũ diệp – Nhân sâm hoang bổ huyết của vùng Tây Bắc
Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus) là một loại sâm quý mọc hoang trong rừng sâu, còn gọi là tam thất hoang, tam thất lá xẻ hay trúc tiết nhân sâm. Thuộc cùng chi Panax với nhân sâm, sâm vũ diệp có hình thái đặc trưng: cây thảo cao 30–50 cm, lá xẻ thùy sâu như lông chim (vũ diệp nghĩa là lá lông vũ) và cho cụm hoa nhỏ màu trắng lục ở ngọn thân.
Quả sâm vũ diệp chín đỏ mọng vào khoảng tháng 7-9 hàng năm, sau đó toàn bộ phần thân lá tàn lụi trong mùa mưa lũ, để lại vết sẹo trên rễ củ – cách xác định tuổi cây. Rễ củ sâm vũ diệp dài, ngoằn ngoèo, có nhiều đốt sẹo do thân rụng hàng năm. Loài sâm này ưa mọc dưới tán rừng ẩm ở núi cao Hoàng Liên Sơn, Sapa. Đáng tiếc, do bị săn lùng và phá rừng, vùng phân bố của sâm vũ diệp đã thu hẹp nghiêm trọng.
Hiện sâm vũ diệp cũng được xếp vào diện cây thuốc quý hiếm cần bảo tồn, tương tự “sâm Lai Châu” hay sâm Ngọc Linh.

Sâm vũ diệp hay còn được gọi là tam thất hoang – Ảnh sưu tầm
Công dụng và giá trị y học
Trong y học cổ truyền, sâm vũ diệp có vị đắng hơi ngọt, tính ấm, tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, tán ứ, thông kinh lạc. Từ lâu đồng bào miền núi dùng sâm vũ diệp như vị thuốc quý để bổ máu cho sản phụ sau sinh và người già yếu. Tại Trung Quốc, loài sâm này được dùng cầm máu khi bị thương, trị ho ra máu và lao phổi.
Đặc biệt, sâm vũ diệp nổi tiếng giúp hoạt huyết, tan máu đông hiệu quả hơn cả tam thất: thí nghiệm cho thấy chỉ số tan huyết của sâm vũ diệp đạt 40-50 so với 20 của tam thất. Ngoài ra, nghiên cứu hiện đại ghi nhận dịch chiết sâm vũ diệp có tác dụng an thần, gây ngủ, ổn định đường huyết, chống oxy hóa, tăng cường tuần hoàn máu não, thải độc gan… giúp bồi bổ và nâng cao sức khỏe toàn diện.
Nam giới vùng cao còn hay ngâm rượu sâm vũ diệp để tăng cường sinh lực (thử nghiệm trên động vật cho thấy thảo dược này có tác dụng kích thích sinh dục đáng kể).
Vai trò với người dân bản địa
Sâm vũ diệp vốn mọc hoang nên trước đây chỉ thợ rừng sành sỏi mới tìm được. Những năm gần đây, khi giá trị của “nhân sâm Tây Bắc” này được biết đến rộng rãi, đã có hiện tượng thương lái thu mua với giá cao khiến người dân đổ xô vào rừng khai thác. Hệ quả là cây sâm quý đứng trước nguy cơ cạn kiệt ngoài tự nhiên. Nhận thức được điều đó, một số hộ gia đình và doanh nghiệp tiên phong đã xây dựng vườn ươm sâm vũ diệp dưới tán rừng.
Chẳng hạn, anh Lê Văn Thảo ở Hoàng Su Phì (Hà Giang) từ năm 2016 đã thu mua củ giống và ươm trồng thành công hàng trăm cây sâm vũ diệp trên diện tích 1 ha. Tuy việc gây trồng gặp nhiều khó khăn – cây chậm lớn, khó ra hoa kết hạt – nhưng những tín hiệu khả quan ban đầu mở ra hy vọng khôi phục loài sâm quý này.
Sâm vũ diệp có giá trị kinh tế rất cao nên vườn trồng còn phải đối mặt nạn trộm cắp cây giống; người trồng phải bảo vệ nghiêm ngặt cả vườn sâm như bảo vệ chính “hũ vàng” của mình. Dù vậy, với sự hỗ trợ của các nhà khoa học, người dân Tây Bắc đang quyết tâm nhân giống và phát triển bền vững sâm vũ diệp, biến loài cây thuốc quý này thành sinh kế làm giàu, đồng thời bảo vệ nguồn gen bản địa.

Sâm vũ diệp có giá trị kinh tế rất cao – Ảnh sưu tầm
Lan kim tuyến – “Vua thảo dược” ẩn mình dưới tán rừng
Lan kim tuyến (còn gọi là lan gấm, cỏ nhung, cây kim cương) là loài địa lan thân thảo chỉ cao chừng 10–20 cm, sống sát mặt đất trong những cánh rừng ẩm tối tăm. Cây mọc rải rác ở độ cao 500-1.600m, thường bám trên nền đất mùn dọc khe suối, dưới tán các cây cổ thụ trên núi đá vôi.
Lan kim tuyến có thân màu tím nhạt mọng nước, mang vài lá hình bầu dục mọc so le. Điểm đặc biệt chính là phiến lá xanh đậm với những đường gân ánh kim lấp lánh như thêu chỉ bạc, tạo vẻ đẹp huyền ảo hiếm thấy. Vào mùa thu (tháng 10-12), cây trổ một cụm hoa nhỏ màu hồng tím, cuối đông kết quả rồi tàn lụi.
Ở Việt Nam, thống kê có khoảng hơn 15 loài lan kim tuyến, trong đó chỉ 2 loài có giá trị dược liệu cao: Anoectochilus formosanus và Anoectochilus roxburghii, phân bố chủ yếu dọc dãy Hoàng Liên Sơn (Tây Bắc) và Trường Sơn. Do bị săn lùng quá mức, lan kim tuyến hiện đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và xếp hạng cực kỳ quý hiếm, cần được bảo vệ nghiêm ngặt.

Lan kim tuyến – Ảnh từ Dược Liệu Nguyễn
Công dụng, giá trị y học
Trong dược điển cổ truyền Trung Hoa, lan kim tuyến được tôn xưng là “Yao Wang” – Vua của các loài thảo dược. Sở dĩ có danh hiệu này vì cây chứa nhiều hoạt chất quý (beta-D-glucopyranosy, succinic acid, sterol, các acid amin…) đem lại hàng loạt công dụng chữa bệnh đa dạng. Theo y học cổ truyền, lan kim tuyến vị ngọt, tính mát, có tác dụng bổ khí huyết, thanh nhiệt, giải độc, dưỡng âm.
Từ xưa, dân gian đã dùng lan kim tuyến làm thuốc an thần, chữa suy nhược thần kinh, trị ho khan kéo dài, đau họng, cao huyết áp, suy thận, thậm chí trị chứng di tinh ở nam giới. Đối với phụ nữ sau sinh cơ thể yếu, dùng lan kim tuyến giúp bổ máu, tăng cường sinh lực. Đặc biệt, các nghiên cứu gần đây cho thấy loài lan này có tiềm năng hỗ trợ điều trị ung thư gan, ung thư phổi rất hiệu quả nhờ các acid amin đặc biệt trong cây.
Ngoài ra, lan kim tuyến còn giúp bảo vệ và tái tạo tế bào gan, được ứng dụng để chữa viêm gan mạn tính, giải độc gan. Nhiều bài thuốc dân tộc kết hợp lan kim tuyến với xạ đen, cà gai leo uống hàng ngày để phòng ngừa khối u, nâng cao miễn dịch. Cây thuốc này cũng giúp giảm stress, chữa mất ngủ, tăng cường tiêu hóa, cải thiện huyết áp – quả thật xứng đáng với biệt danh “vua thảo dược” trong rừng.
Vai trò và nỗ lực bảo tồn
Lan kim tuyến vốn ít được biết đến trong đời sống người dân bản địa trước kia. Tuy nhiên, khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, khi những công dụng thần kỳ của “cỏ kim cương” được quảng bá, dược liệu này trở nên đắt như vàng. Một cân lan kim tuyến khô có thời điểm được thu mua với giá hàng chục triệu đồng.
Vì lợi nhuận, không ít nhóm người đã vào rừng lùng tìm lan kim tuyến, dẫn đến tình trạng “cạn kiệt gần như tuyệt chủng ngoài tự nhiên”. Nhiều khu vực rừng Hoàng Liên, Vườn quốc gia Pù Mát… ghi nhận lan kim tuyến gần như biến mất sau các đợt săn tìm ồ ạt. Trước thực trạng đó, các nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu phương pháp nhân giống mô và gây trồng lan kim tuyến trong điều kiện nhân tạo.
Một số vườn ươm ở Sa Pa, Lâm Đồng đã bước đầu nuôi trồng thành công loại địa lan này trong phòng thí nghiệm và nhà lưới. Dù cây phát triển chậm, khó nhân nhanh, hy vọng trong tương lai có thể cung cấp giống lan gấm cho cộng đồng, giảm áp lực thu hái từ rừng. Người dân địa phương cũng được khuyến khích trồng lan kim tuyến dưới tán rừng nhằm vừa phát triển kinh tế dược liệu, vừa giữ gìn loài cây quý của núi rừng Tây Bắc.

Lan kim tuyến dược liệu được ví đắt như vàng – Ảnh từ Dược Liệu Nguyễn
Thất diệp nhất chi hoa – Bảy lá một hoa, bài thuốc cứu mạng chốn rừng sâu
Thất diệp nhất chi hoa (Paris polyphylla) được người dân tộc thiểu số vùng cao truyền tụng như một bài thuốc cứu mạng giữa rừng sâu. Tên cây nghĩa là “bảy lá một hoa” – do mỗi cây thường có một vòng gồm 7 lá tỏa ra và chỉ trổ duy nhất một bông hoa ở ngọn thân. Thực ra số lá có thể dao động 5–10, nhưng phổ biến vẫn là 7 lá, nên dân gian quen gọi bảy lá một hoa.
Cây thuộc họ hành tỏi, thân thảo cao 50–100 cm, sống lâu năm nhờ thân rễ nằm ngang dưới đất. Hoa mọc đơn độc trên cuống dài, cánh hoa mảnh dài màu xanh nhạt rủ xuống trông khá kỳ lạ. Quả mọng hình cầu màu tím đen, chứa nhiều hạt. Thất diệp nhất chi hoa phân bố rải rác ở các vùng núi cao mát ẩm từ Lào Cai, Lai Châu sang các tỉnh Đông Bắc (Lạng Sơn, Cao Bằng). Hiện loài này rất hiếm ngoài tự nhiên, phạm vi hẹp, nên cũng được ghi vào danh sách cần bảo tồn.

Thất diệp nhất chi hoa – Ảnh từ Hiên Tam Thất
Công dụng dược liệu
Theo Đông y, thân rễ bảy lá một hoa vị ngọt, hơi cay, tính bình, không độc. Cây có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, bình suyễn chỉ khái (giảm ho hen). Từ lâu, đồng bào miền núi phía Bắc đã dùng thất diệp nhất chi hoa để giải độc rắn cắn, côn trùng cắn, và trị các chứng mụn nhọt, viêm da mủ, viêm tuyến vú rất hiệu quả.
Khi bị rắn độc cắn, họ giã nát thân rễ tươi (còn gọi là tảo hưu) với giấm đắp lên vết thương, vừa giảm đau vừa trung hòa độc tố. Cây thuốc này còn được dùng uống trong điều trị sốt rét cơn, ho lao, hen suyễn, viêm họng, bạch hầu và các chứng viêm nhiễm đường hô hấp.
Ngày nay, y học hiện đại đã phát hiện các hoạt chất polyphyllin chiết từ Paris có khả năng ức chế sự di căn của tế bào ung thư, đặc biệt trên một số dòng ung thư vú. Nhờ tiềm năng chống ung thư, thảo dược “bảy lá một hoa” ngày càng được săn đón và nghiên cứu rộng rãi.
Giá trị kinh tế và vai trò với người dân
Thất diệp nhất chi hoa hiện được đánh giá là cây dược liệu có tiềm năng kinh tế lớn. Nhu cầu thị trường rất cao, “có bao nhiêu bán hết bấy nhiêu”, bởi đây là nguyên liệu sản xuất nhiều loại thuốc Đông y quý. Tại Trung Quốc, thân rễ Paris (gọi là “dĩ tuyến liên”) từ lâu đã là thành phần chính trong bài thuốc nổi tiếng chữa rắn cắn và bệnh viêm nhiễm.
Tại Việt Nam, vài năm gần đây giá bảy lá một hoa tăng vọt, hiện khoảng 2,5 triệu đồng/kg thân rễ khô. Mỗi ha trồng cây thuốc này nếu thành công có thể thu về tiền tỷ mỗi năm, cao gấp nhiều lần trồng ngô lúa. Nhận thấy giá trị đó, các dự án phát triển dược liệu ở Tây Bắc đã đưa thất diệp nhất chi hoa vào danh mục ưu tiên nhân giống.
Viện Dược liệu cùng một số vườn quốc gia (Pù Mát, Hoàng Liên) đã trồng thử nghiệm hàng nghìn cây giống dưới tán rừng và bước đầu thu kết quả khả quan. Tỉnh Lạng Sơn cũng trồng thành công trên 5 ha ở vùng núi Mẫu Sơn, cây sinh trưởng tốt, phù hợp thổ nhưỡng. Một số hộ dân ở Lào Cai, Nghệ An được hỗ trợ kỹ thuật trồng loài cây này để thoát nghèo và làm giàu bền vững.
Có thể nói, thất diệp nhất chi hoa đang mở ra hướng đi mới, vừa giúp cung cấp nguồn dược liệu quý cho y học, vừa tạo sinh kế ổn định cho người dân vùng cao.

Thất diệp nhất chi hoa hiện được đánh giá là cây dược liệu có tiềm năng kinh tế cao – Ảnh từ Bảo Trang
Một số cây dược liệu quý khác của Tây Bắc
Bên cạnh những cái tên tiêu biểu kể trên, núi rừng Tây Bắc còn sở hữu nhiều loài cây thuốc độc đáo khác, ít được biết đến nhưng giá trị dược liệu rất cao:
Hoàng liên chân gà: Cây thảo sống ở đỉnh Hoàng Liên Sơn, có rễ vàng như sợi chỉ. Vị rất đắng, tính hàn, là vị thuốc kháng khuẩn mạnh, chuyên trị kiết lỵ, tiêu chảy, viêm dạ dày. Dược liệu hoàng liên giàu berberin – chất kháng sinh thực vật quý – nên được ví như “kháng sinh của Đông y”.
Cẩu tích (lông culi): Loài quyết thực vật (dương xỉ) mọc dưới tán rừng ẩm. Phần rễ củ phủ đầy lông vàng óng như lông thú nên gọi cẩu tích (lông chó). Theo y học cổ truyền, cẩu tích tính ôn, vị đắng, vào kinh can thận, giúp mạnh gân cốt, trừ phong thấp, chuyên dùng chữa đau lưng, thoái hóa khớp, đau thần kinh tọa. Đây cũng là dược liệu giúp bổ thận, lợi niệu, trị tiểu nhiều về đêm cho người cao tuổi.
Giảo cổ lam: Dây leo thân thảo được mệnh danh “cỏ trường sinh” của vùng núi Fansipan. Giảo cổ lam có lá xẻ 5 thùy như hình ngôi sao nên còn gọi là ngũ diệp sâm, hàm ý là loại sâm năm lá. Dân gian người Dao ở Sa Pa xưa kia dùng giảo cổ lam làm trà uống chống mệt mỏi, tăng sức dẻo dai. Khoa học hiện đại phát hiện cây chứa hoạt chất phanosid giúp hạ mỡ máu, ổn định đường huyết, giảm cholesterol xấu.

Giảo cổ lam – Ảnh từ Lý Thị Điều
Ngày nay trà giảo cổ lam trở thành đặc sản được du khách ưa chuộng, song việc người dân ồ ạt vào rừng hái bán cũng khiến loài cây này dần khan hiếm. Hiện đã có mô hình trồng giảo cổ lam thương mại tại Mộc Châu, Sa Pa để vừa đáp ứng nhu cầu, vừa bảo tồn loài cây quý.
(Ngoài ra, Tây Bắc còn nhiều cây thuốc giá trị khác như hà thủ ô đỏ – vị thuốc bổ huyết làm đen tóc, đương quy – “nhân sâm cho phụ nữ”, sa nhân tím – dược liệu quý trị đau dạ dày, v.v. Tất cả đều góp phần tạo nên kho tàng dược liệu phong phú, là niềm tự hào của núi rừng Tây Bắc.)
Giá trị kinh tế của cây thuốc bản địa Tây Bắc
Phát triển cây dược liệu đang trở thành hướng đi đầy triển vọng cho nhiều tỉnh miền núi phía Bắc. Nhờ giá trị cao của các cây thuốc quý, người dân địa phương có cơ hội thoát nghèo và vươn lên làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương. Thực tế cho thấy, nhiều dự án trồng dược liệu ở Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái đã mang lại thu nhập cao gấp 2-3 lần so với trồng cây nông nghiệp thông thường.
Ví dụ, tại xã Sà Dề Phìn (huyện Sìn Hồ, Lai Châu), mô hình trồng đương quy cho thu nhập hơn 300 triệu đồng/ha, giúp bà con cải thiện đời sống rõ rệt. Ở Yên Bái, cây sơn tra (táo mèo) và quế trở thành cây làm giàu với hàng chục nghìn hecta cho sản lượng lớn, giá trị cao. Đặc biệt, các cây thuốc quý hiếm như tam thất, sâm vũ diệp, lan kim tuyến, thất diệp nhất chi hoa có giá bán rất cao, lại được thị trường ưa chuộng.
Mỗi kg dược liệu quý có thể đáng giá cả vài triệu đồng, do đó nếu gây trồng thành công sẽ đem lại nguồn thu khổng lồ. Chính quyền các tỉnh Tây Bắc xác định phát triển cây dược liệu là hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, vừa phát huy lợi thế khí hậu thổ nhưỡng, vừa giữ gìn tri thức bản địa và tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc.
Một nền nông nghiệp dược liệu đang dần hình thành, biến những cây cỏ rừng quý hiếm thành sản phẩm hàng hóa giá trị cao phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Tình trạng bảo tồn và nguy cơ suy giảm
Dù có tiềm năng lớn, nguồn dược liệu quý ở Tây Bắc đang đối mặt với nhiều thách thức về bảo tồn. Việc khai thác tự phát, thiếu quy hoạch trong thời gian dài đã khiến nhiều loài đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Như đã nêu, các cây thuốc cực kỳ quý như sâm vũ diệp, thất diệp nhất chi hoa, tam thất hoang, lan kim tuyến… đều đã được xếp vào Sách Đỏ do số lượng suy giảm nghiêm trọng.
Nguyên nhân chính là do người dân quá phụ thuộc vào hái lượm tự nhiên, vào rừng tìm đào cây thuốc bán mà thiếu biện pháp tái sinh. Bên cạnh đó, nạn phá rừng, mất sinh cảnh cũng góp phần thu hẹp nơi sinh sống của nhiều loài thảo dược. Báo cáo cho thấy một số quần thể cây thuốc hoang dã đã sụt giảm tới 80-90% chỉ trong vòng một thập kỷ. Nếu không có hành động kịp thời, chúng ta có nguy cơ mất đi những gen dược liệu đặc hữu vô cùng giá trị đối với y học Việt Nam và thế giới.
Ngoài ra, một vấn đề đáng lưu ý là phần lớn dược liệu Tây Bắc sau khi thu hái mới chỉ bán thô với giá rẻ, chưa qua chế biến sâu nên giá trị kinh tế chưa tương xứng. Nguồn lợi lớn từ dược liệu quý nhiều khi chưa vào tay người dân, mà rơi vào khâu trung gian hoặc thương lái. Việc thiếu các cơ sở sơ chế, bào chế ngay tại địa phương khiến cây thuốc quý bị thất thoát giá trị, đồng thời người trồng chưa gắn bó lâu dài với nghề dược liệu.
Vì vậy, bài toán đặt ra là vừa phải bảo tồn nguồn gen quý, vừa nâng cao chuỗi giá trị để người dân thực sự hưởng lợi và có động lực gìn giữ các loài cây thuốc.
Phát triển dược liệu bền vững ở Tây Bắc
Để bảo vệ và phát huy các cây thuốc quý hiếm, Tây Bắc đang hướng tới mô hình phát triển bền vững gắn với bảo tồn. Trước hết, các địa phương đã khoanh vùng các vùng lõi dược liệu – những nơi có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp – để tập trung bảo vệ và nhân giống cây thuốc.
Ví dụ, Vườn quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai) và Pù Mát (Nghệ An) đã hình thành vườn bảo tồn cho các loài sâm quý, lan kim tuyến, thất diệp nhất chi hoa…. Công tác nhân giống nhân tạo được đẩy mạnh: từ nuôi cấy mô trong phòng thí nghiệm với lan kim tuyến, đến gieo hạt, ươm cây con dưới tán rừng với tam thất hoang, thất diệp nhất chi hoa.
Các viện nghiên cứu phối hợp cùng địa phương chuyển giao kỹ thuật trồng, chăm sóc cây dược liệu cho người dân. Mô hình vườn nhà dưới tán rừng được khuyến khích, theo đó bà con có thể trồng xen cây thuốc quý cùng với cây lâm nghiệp, vừa tận dụng đất rừng, vừa tạo môi trường giống tự nhiên cho dược liệu phát triển.
Bên cạnh đó, chính quyền và ngành lâm nghiệp tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu giá trị lâu dài của việc thu hái bền vững. Các nguyên tắc như “không lấy cây non, không thu hoạch toàn bộ quần thể, để lại một phần cho rừng tái sinh” được phổ biến rộng rãi.
Chẳng hạn, khi đi lấy tam thất rừng hay thất diệp nhất chi hoa, người dân được khuyến cáo chỉ lấy một phần củ và giữ lại cây con, hoặc tốt hơn là chỉ thu hái những cây đã già rồi tham gia tái trồng ngay tại chỗ. Việc trồng gây giống tại địa phương cũng được hỗ trợ, giúp giảm áp lực lên rừng tự nhiên.
Nhiều doanh nghiệp dược liệu đã liên kết với hợp tác xã nông nghiệp ở Tây Bắc để bao tiêu sản phẩm, hướng dẫn kỹ thuật trồng chuẩn GACP-WHO (thực hành tốt trồng và thu hái theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới). Điều này không chỉ đảm bảo chất lượng dược liệu cao, mà còn giúp người trồng có đầu ra ổn định, yên tâm gắn bó với cây thuốc lâu dài.
Cuối cùng, giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của tài nguyên dược liệu được chú trọng. Thông qua các chương trình đào tạo, con em đồng bào hiểu rằng những cây thuốc quanh mình không chỉ là bài thuốc gia truyền, mà còn là di sản thiên nhiên quý giá cần được gìn giữ cho muôn đời sau.
Sự tham gia tích cực của người dân bản địa – từ gìn giữ tri thức sử dụng, đến bảo vệ môi trường sống cho cây thuốc – chính là chìa khóa để phát triển ngành dược liệu Tây Bắc một cách bền vững, lâu dài và hiệu quả.
Tây Bắc mùa trồng cây thuốc không chỉ đơn thuần là câu chuyện gieo trồng dược liệu, mà còn là bức tranh về sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Những loại cây thuốc quý hiếm như tam thất, sâm vũ diệp, lan kim tuyến hay bảy lá một hoa là món quà vô giá mà núi rừng ban tặng, đồng thời là niềm tự hào của cộng đồng các dân tộc vùng cao.
Việc bảo tồn và phát triển những cây thuốc này có ý nghĩa nhiều mặt: vừa lưu giữ được nguồn gen dược liệu độc đáo cho y học, vừa mở ra sinh kế bền vững giúp người dân xóa đói giảm nghèo, lại góp phần giữ gìn môi trường rừng. Bài toán đặt ra là làm sao để biến lợi thế “rừng thuốc” của Tây Bắc thành lợi ích lâu dài.
Tin rằng với sự chung tay của nhà quản lý, nhà khoa học và người dân bản địa, kho báu cây thuốc nơi đại ngàn Tây Bắc sẽ tiếp tục được phát huy, tỏa sáng, mang lại sức khỏe và thịnh vượng cho cả cộng đồng. Các loài dược liệu quý rồi sẽ được nhân lên xanh tốt trên nương rẫy, để mỗi độ mùa trồng cây thuốc đến, núi rừng Tây Bắc lại ngát hương dược thảo – hương của sự sống, hương của niềm hy vọng.